Thông tin về độ tuổi của trẻ

36 tháng (3 tuổi) đến 48 tháng (4 tuổi)

SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI – CẢM XÚC

36 THÁNG (3 tuổi) ĐẾN 48 THÁNG (4 tuổi)

Trẻ tìm hiểu về cảm xúc và các mối quan hệ như thế nào?

Sự phát triển xã hội – cảm xúc Giới thiệu

Cách thức các trẻ suy nghĩ và điều hợp

  • bản thân,
  • cảm xúc và hành vi, và
  • mối quan hệ của mình

…là những gì chúng ta gọi quá trình phát triển xã hội-cảm xúc.

Quá trình phát triển các kỹ năng này rất quan trọng đối với sự thành công của các trẻ trong trường học cũng như là các kỹ năng khác, chẳng hạn như ngôn ngữ và khả năng đọc viết và toán học.

Trong suốt thời gian năm tuổi đầu tiên, các trẻ sẽ học cách…

  • điều hợp hành vi của riêng mình,
  • nhận biết, giải thích và điều hợp cảm xúc của chúng,
  • thông báo và hồi đáp một cách chu đáo các cảm xúc của những người khác,
  • tương tác với bạn bè,
  • trở thành một thành viên của nhóm, hoặc
  • phát triển các mối quan hệ thân mật với người lớn, bao gồm cha/mẹ, các thành viên khác trong gia đình, và giáo viên.

Các trẻ học những kỹ năng xã hội-cảm xúc này trong các mối quan hệ thân mật với người lớn thông qua quá trình giao tiếp qua lại, chia sẻ các trải nghiệm và hướng dẫn chăm sóc. Việc vui chơi cũng chủ yếu giúp đỡ các trẻ học tập những kỹ năng này. Qua việc vui chơi, các trẻ thực hành những kỹ năng xã hội của mình, khám phá cảm xúc, thử các hành vi mới và tiếp nhận phản hồi từ những người khác. Việc vui chơi cho phép các trẻ học nhiều hơn về bản thân và những người khác, đồng thời phát triển các kỹ năng giao tiếp và tương tác của chúng.

Sự phát triển xã hội – cảm xúc

Giới thiệu

Con tôi sẽ học hỏi những gì về bản thân và cảm xúc của chúng?

Con bốn tuổi của quý vị đang nhiệt tình tự làm việc. Trẻ có thể từ chối sự giúp đỡ của quý vị, cho dù trẻ đang phải cố gắng và nản lòng. Trẻ có nhiều cách để mô tả bản thân và các kỹ năng của trẻ. “Bây giờ con bốn tuổi rồi đấy!” “Con đang lớn hơn.” “Con thích vẽ.” “Con biết cách đi xe hẩy rồi!”  Trẻ có thể kỷ niệm các thành tích của mình bằng việc reo hò cổ vũ.  Trẻ đã phát triển được một số cách tự trấn tĩnh khi đau buồn, nhưng đôi khi lại cần sự hỗ trợ và an ủi của người lớn để giúp trẻ nguôi ngoai.  Trẻ có thể bắt đầu tự dọn vệ sinh, đôi khi không cần yêu cầu. Trẻ có thể nghĩ về cách trẻ đã thay đổi. “Con đã ba tuổi, nhưng nay con bốn tuổi rồi!”
Trẻ có thể diễn đạt và mô tả các cảm xúc chẳng hạn như buồn, bực bội và sợ hãi, có thể giải thích những gì đã gây ra, và có thể có khả năng đòi dỗ dành riêng biệt. Trẻ cũng có thể mô tả cảm xúc của các trẻ khác và thỉnh thoảng nhận biết lý do chúng cảm nhận cách đó. “Theo đang buồn vì Laurene phá đổ các hình khối của mình.” Trẻ đôi khi có thể an ủi và đồng cảm cho những người khác, đặc biệt nếu trẻ đã không trực tiếp liên quan đến xung khắc này.
Trẻ sẽ học hỏi gì về những người khác và các mối quan hệ?

  • Tình bạn là quan trọng đối với thành công của các trẻ trong trường học và trong cuộc sống. Khả năng tăng trưởng của chúng để giao tiếp và thương lượng với bạn bè của chúng cho phép chúng chơi đùa trong các khoảng thời gian lâu hơn và tham gia vào các kiểu trò chơi phức tạp hơn.
  • Các trẻ đang bắt đầu chú ý và mô tả sự khác biệt giữa bản thân chúng và những người khác. “Tóc Nona màu nâu, còn mình thì màu đen.”
  • Các trẻ có thể đang phát triển quan hệ tình bạn đặc biệt với trẻ nào đó và sử dụng các từ, “bạn tốt.”
  • Các trẻ vẫn còn đang học hỏi xem “tình bạn” có nghĩa là gì và có thể nghĩ rằng liệu mình có thể nổi giận với người nào không còn là bạn mình nữa.
  • Các trẻ có một số kỹ năng để tham gia chơi đùa với trẻ khác. Các trẻ có thể quan sát một lúc, bắt đầu chơi đùa bên cạnh những người khác hoặc chúng có thể hỏi xem chúng có thể chơi đùa hay không–gợi ý rằng chúng có thể là “em” trong trò chơi gia đình giả bộ.
  • Các trẻ có một số kỹ năng thương lượng và có thể sử dụng để giải quyết xung khắc với bạn bè. Đôi khi chúng có thể chia sẻ đồ chơi và vật liệu trong khi chơi với các trẻ khác, nhưng vẫn sẽ thương lượng xem “ai được chơi trước” và “một lượt chơi là bao lâu”.
  • Các trẻ có thể hướng dẫn những người khác khi chơi đùa, “Bạn phải là cha,” và thỉnh thoảng được những người khác hướng dẫn. Nhưng cũng có lúc khác các trẻ có thể nổi nóng và đe dọa nếu người nào không theo đúng luật của mình—người đó không thể đến dự sinh nhật của mình.
  • Các trẻ có thể tham gia các hoạt động nhóm với một số trẻ khác, nhưng không phải lúc nào cũng có thể chờ đợi đến lượt mình được nói chuyện. Các trẻ thích biết những gì sẽ xảy ra và nếu được cung cấp thông tin về việc chuyển tiếp sắp đến, có thể có khả năng hợp tác tham gia.
  • Đối với chúng, cha mẹ và giáo viên là rất quan trọng như là nguồn an ủi và thông tin, nhưng chúng có thể chống lại hướng dẫn của người lớn, nói, “Mẹ không là chủ của con.” Các trẻ có vẻ nhiệt tình đưa ra tất cả quyết định và phải thường xuyên “trắc nghiệm” xem người lớn có còn chịu trách nhiệm về một quyết định hay không. Các trẻ đang bắt đầu có khả năng tuân thủ luật chơi, ngay cả khi không có người lớn ở gần, nhưng đôi khi cũng cần được nhắc nhở về luật chơi.

Đây là một số gợi ý để hỗ trợ con quý vị học hỏi về bản thân như một con người, học hỏi về những người khác và học hỏi về cảm xúc của mình:

Học hỏi về bản thân như một con người

  • Trẻ thích cảm thấy “độc lập”….Có thể phải mất thêm thời gian để làm xong các việc khi trẻ ra tay giúp đỡ, nhưng việc tham gia theo cách này khiến trẻ cảm thấy mình có khả năng và tạo cơ hội cho trẻ thực hành các kỹ năng mới của mình.
    • Trẻ có thể chọn ra quần áo của riêng trẻ, cũng như tự mặc và tự cởi quần áo.
    • Trẻ thích giúp các công việc nội trợ như nấu nướng, làm vườn, xếp quần áo mới giặt ủi, dọn bàn ăn, cất đồ chơi hoặc giúp rửa xe.
  • Bằng việc cố gắng trở thành “người lớn” của trẻ, trẻ có thể không làm những gì quý vị yêu cầu.
    • Ngay cả khi quý vị cần ngăn chặn trẻ lại hoặc thiết lập một giới hạn cho trẻ, quý vị có thể cho trẻ biết quý vị hiểu trẻ có một ý tưởng hay. Nếu trẻ từ chối tắt TV, thậm chí sau khi quý vị đã cảnh báo trẻ, quý vị có thể nói chuyện với trẻ, thừa nhận cảm xúc của trẻ, gợi ý khi trẻ có thể xem lại, và cho trẻ một chọn lựa về cách kết thúc hoạt động.
    • “Bây giờ đã đến lúc phải tắt TV rồi con.” (giới hạn tích cực)
    • “Mẹ biết con thích xem chương trình này.” (thừa nhận ý tưởng của trẻ)
    • “Sau khi tắt TV, chúng ta có thể hoạch định khi nào con có thể xem TV lại.”
    • “Con có thể tự tắt TV hoặc mẹ sẽ giúp được không?” (chọn lựa diễn ý)
    • “Chúng ta hãy tìm một trò khác để chơi đi—có lẽ là trò nào đó mà con phải đi vòng vòng và hoạt động hay có thể là trò nào con có thể viết ra câu chuyện của riêng mình”.

Học hỏi về các cảm xúc của riêng mình

  • Hỏi trẻ về các cảm giác.
    • “Bây giờ con cảm thấy như thế rồi?”
    • “Hãy nhìn cậu bé trong quyển sách này. Con nghĩ cậu bé đang cảm nhận như thế nào?” Vì sao con nghĩ cậu bé đang cảm nhận giống như thế?”
  • Giúp trẻ hiểu được cảm xúc của mình bằng cách đề nghị gọi tên cho chúng khi trẻ không có từ dành cho chúng.
    • “Có vẻ như con đang cảm thấy buồn.”
    • “Khi con cố xếp các hình khối, và chúng đổ xuống, điều đó có thể làm con thất vọng.”
    • “Mẹ có thể thấy con hào hứng như thế nào khi đi đến nhà của bạn con.”
  • Dành thời gian thường xuyên để nói chuyện về cảm xúc.
    • “Ngày hôm nay của con như thế nào? Con đã buồn về cái gì vậy? Con có bực bội về bất kỳ điều nào không? Có bất kỳ điều gì buồn đã xảy ra không? Phần ưa thích trong ngày của con là gì?
    • Khi trẻ chia sẻ các cảm xúc và trải nghiệm của mình với quý vị, quý vị có thể lắng nghe các ý tưởng của trẻ và nói chuyện với trẻ về chúng.
  • Giúp trẻ tìm kiếm những cách an toàn để diễn đạt cảm xúc của mình
    • “Có vẻ như con đang tức giận với bạn con.” Con có thể nói với bạn những gì con đang tức giận không?”
    • “Nếu con bực bội và muốn đánh vào một vật gì  đó, có thể đánh vào cái gối này, nhưng đánh vào bạn con là không an toàn.”
  • Khi con quý vị sợ hãi, hãy ở gần và dỗ dành. Đôi khi con quý vị không muốn được thoát khỏi hoàn cảnh sợ hãi, mà chỉ muốn quý vị ở đó để giúp đỡ mình. Nếu trẻ sợ chú chó thân thiết của người hàng xóm, quý vị có thể ngồi xuống cạnh trẻ, ôm trẻ và nói chuyện về con chó. Thường thì việc hiện diện của quý vị và một số thông tin và sự tương tác an toàn sẽ giúp trẻ bớt sợ hơn. Nếu trẻ muốn bỏ đi, hãy nhận lấy các manh mối của quý vị từ trẻ. Đôi khi chụp hình những sự vật đáng sợ và để cho con quý vị cầm và nói chuyện về tấm ảnh sẽ giúp trẻ hết sợ.
    • Quý vị có thể ghép các ảnh chụp vào trong một quyển sách hỏi trẻ nếu trẻ muốn vẽ hình và giúp trẻ ghép các hình ảnh của trẻ vào trong một quyển sách (bấm chung lại).  Khi các hình ảnh hoặc ảnh chụp có trong một quyển sách nhỏ, trẻ có thể muốn nói với quý vị một vài lời để viết về các hình ảnh. Đọc sách này với trẻ có thể giúp trẻ biết được cách kiểm soát các nỗi sợ hãi của trẻ.
  • Cho trẻ biết rằng tất cả cảm xúc của trẻ đều lành mạnh và quý vị sẽ lắng nghe hoặc thừa nhận cảm xúc của trẻ.Việc này cho phép trẻ tin tưởng quý vị bằng cảm xúc của trẻ và không còn cảm thấy như trẻ che dấu cảm xúc của trẻ với quý vị nữa.

Học hỏi về những người khác

  • Tạo các cơ hội cho trẻ để chơi đùa với các trẻ khác (ở công viên, với những người hàng xóm hoặc gia đình, trong các lớp học giữ trẻ hoặc dành cho cha mẹ/con cái).
  • Có mặt khi trẻ đang chơi đùa với các trẻ khác. Trẻ có thể cần một số trợ giúp trong việc thương lượng, lắng nghe các ý tưởng của bạn trẻ, nói lên các ý tưởng và theo kịp các giải pháp. Trẻ cũng có thể cần một số trợ giúp an toàn, khi trẻ và bạn bè của trẻ hào hứng thử nghiệm các việc mới.

SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ VÀ ĐỌC VIẾT

36 THÁNG (3 tuổi) ĐẾN 48 THÁNG (4 tuổi)

Trẻ học ngôn ngữ như thế nào?

Tổng quan về Ngôn ngữ và Khả năng đọc viết

Trẻ em sinh ra đã sẵn sàng để giao tiếp và học ngôn ngữ. Lắng nghe ngôn ngữ được sử dụng trong gia đình, trẻ em sớm bắt đầu phân biệt được những âm thanh quen thuộc và xây dựng vốn từ vựng gồm những từ mà trẻ hiểu được, ngay cả trước khi trẻ biết nói. Khả năng hiểu ngôn ngữ của của trẻ được gọi là “ngôn ngữ tiếp thu.”
Ban đầu, trẻ nhỏ giao tiếp thông qua việc tạo ra âm thanh, ví dụ như khóc, và thông qua cử chỉ. Khi đến tuổi chập chững biết đi, trẻ bắt đầu sử dụng một vài từ quen thuộc, và đến khoảng 4 đến 5 tuổi, trẻ có vốn từ vựng phong phú và tuân thủ các quy tắc ngữ pháp khi sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Khả năng trẻ sử dụng ngôn ngữ để nói ra suy nghĩ, ý tưởng và cảm xúc được gọi là “ngôn ngữ biểu đạt.”
Khi trẻ em học ngôn ngữ nói, chúng cũng học ngôn ngữ viết, thông qua những cuốn sách, biển hiệu, và ghi chú. Trước khi biết đọc, trẻ em học được rằng chữ in tương ứng với các từ và trước khi biết viết, trẻ em học cách vẽ các dấu hiệu và tranh. Khi lên 5 tuổi, trẻ hiểu rằng các chữ cái ghép lại thành từ và các từ có thể ghép thành những câu chuyện mà trẻ sẽ học đọc. Nhiều trẻ 5 tuổi còn có thể đọc và viết tên của mình.

Sự phát triển Ngôn ngữ và Đọc viết

Giới thiệu

Các trẻ học ngôn ngữ và bắt đầu hiểu cách đọc và viết như thế nào?

  • Khoảng 4 tuổi, đa số các trẻ đã có thể truyền đạt ý tưởng và cảm giác của mình, hỏi và trả lời các câu hỏi, và hiểu điều người ta nói với chúng. Chúng có thể nói chuyện về những điều đã xảy ra trong quá khứ và sẽ xảy ra trong tương lai.
  • Chúng có thể tham gia các cuộc đàm thoại với người khác, có lúc cũng đáp ứng “đúng chủ đề”. Chúng có thể kể chuyện và thuật lại theo các trình tự đơn giản. Chúng có thể kết hợp các sự kiện tưởng tượng và có thực trong các câu truyện của mình.
  • Khoảng 4 tuổi, các trẻ thích chơi đùa với âm thanh của các từ, tạo ra các giai điệu ngờ nghệch. Chúng cũng thích tạo ra những từ “vớ vẩn” và đôi khi còn thử nghiệm loại ngôn ngữ “ngớ ngẩn” nữa. Chúng đã học được nhiều “quy tắc” giao tiếp về gia đình và văn hóa của chúng và khi sử dụng ngôn ngữ chỉ mắc một ít lỗi, chẳng hạn như “Con đả đi đến cửa hàng”. Chúng cũng thích học các từ “có tầm cỡ”, như tên của các loại xe tải chuyên dùng.
  • Vào khoảng 4 tuổi, các trẻ hiểu rằng các mẫu tự trên một trang sách thì khác với các hình ảnh.  Chúng đang biết rằng các mẫu tự tạo thành các từ và khi nhiều người khác nhau đọc các từ thì các từ vẫn y như vậy.
  • Chúng quan tâm đến vẽ và viết và sẽ “giả bộ” viết các mẫu tự và các từ, thậm chí trước khi chúng thực sự biết viết chữ.
  • Vào khoảng 4 tuổi, các trẻ cũng giả bộ đọc sách, giở sách và “kể chuyện” theo trí nhớ của mình về câu chuyện hay bằng cách nói chuyện về các hình ảnh. Nhiều trẻ cũng đã học lời của một số bài hát.

Quá Trình Phát Triển Song Ngữ

Các trẻ thuộc các gia đình dùng song ngữ hay không dùng tiếng Anh học ngôn ngữ như thế nào

  • Các trẻ nhỏ rất khéo léo trong việc học ngôn ngữ và có khả năng học hai hay nhiều ngôn ngữ thậm chí trước khi chúng bắt đầu đi học.
  • Các gia đình nói một ngôn ngữ ở nhà không phải là tiếng Anh có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình làm ngôn ngữ chính với các trẻ. Việc học tiếng mẹ đẻ giúp các trẻ cảm thấy kết nối với gia đình và văn hóa của mình. Chúng có thể học tiếng Anh đồng thời nếu gia đình dùng song ngữ hoặc chúng có thể học tiếng Anh khi bắt đầu đi nhà trẻ hay đi học.
  • Các gia đình hỗ trợ việc học ngôn ngữ bằng cách nói chuyện, đọc sách và hát cho các con mình bằng tiếng mẹ đẻ. Bằng cách này các trẻ học được nhiều kỹ năng ngôn ngữ sẽ giúp cho trẻ khi bắt đầu học tiếng Anh.
  • Kiểm tra thư viện sách bằng tiếng mẹ đẻ ở địa phương của quý vị.
  • Các trẻ có cơ hội nói song ngữ ở độ tuổi đầu đời này sẽ hưởng lợi từ việc sử dụng hai ngôn ngữ trong suốt cuộc đời mình.

Nghe và Nói

Nghe và nói giúp trẻ học ngôn ngữ như thế nào?

Học nói và tham gia đàm thoại là những bước đầu rất quan trọng cho việc học đọc và sự thành công ở trường học. Càng nghe được nhiều từ và vốn từ càng nhiều, thì trẻ càng học giỏi ở trường. Các trẻ là những người nhiệt tình học ngôn ngữ và bị hấp dẫn vì sức mạnh của ngôn ngữ…

  • để truyền đạt các các nhu cầu, cảm giác và ý tưởng của mình,
  • để chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của mình với người khác,
  • để làm cho sự việc xảy ra,
  • để nhận và cho thông tin,
  • để giải quyết các vấn đề,
  • để giúp chúng kết nối với mọi người,
  • để tạo ra và kể các câu truyện.

Các trẻ học ngôn ngữ bằng cách nghe, nói, thực hành các từ mới, và được nghe và được trả lời. Các trẻ học các từ khi quý vị sử dụng từ mới với chúng. Các gia đình có nhiều, nhiều cơ hội mỗi ngày để giúp các trẻ học ngôn ngữ.

Gợi ý về những gì mà gia đình có thể làm được để hỗ trợ các trẻ học ngôn ngữ:

  • Quý vị có thể hỗ trợ quá trình phát triển ngôn ngữ của các trẻ trong các hoạt động hàng ngày của quý vị. Ngôn ngữ không là một cái gì đó mà phải được dạy bằng “các bài học đặc biệt”. Khi gia đình nói chuyện với các trẻ, họ đang dạy ngôn ngữ một cách tự nhiên. Sử dụng ngôn ngữ với trẻ là toàn bộ những gì mà các gia đình phải làm. Gia đình càng sử dụng với các trẻ nhiều ngôn ngữ bao nhiêu, thì trẻ càng học được nhiều ngôn ngữ bấy nhiêu.
  • Trong xe hơi, tại cửa hàng, khi tản bộ, khi đang làm việc nhà, khi trẻ đang chơi, trong bữa ăn, vào giờ đi ngủ, hãy nói chuyện vềKhi quý vị nói chuyện về những sự việc trước mắt và quen thuộc, các trẻ có thể hiểu ngôn ngữ tốt hơn vì chúng có manh mối và kinh nghiệm bằng hình ảnh ăn khớp với các từ của quý vị.
    • những gì quý vị đang thấy,
    • những gì các trẻ đang làm,
    • những gì quý vị đang làm,
    • những gì quý vị đã cùng làm trước đó,
    • những gì quý vị sẽ làm sau đó.
  • Thêm một số từ mô tả mới khi quý vị đang nói chuyện với các trẻ. Một trong những cách mà chúng ta xây dựng từ vựng với các trẻ một cách tự nhiên là giới thiệu các từ mới cùng với những từ quen thuộc mà trẻ đã biết và các manh mối bằng hình ảnh để chúng có thể hiểu các từ mới dễ dàng hơn.
    • “Có một con chó”.
    •  “Có một con chó khỏe mạnh, to lớn”.
    • “Có một con chó lông xù, khỏe mạnh, to lớn đang ngửi hòn đá và vẫy đuôi”.
  • Chia sẻ các câu chuyện với các trẻ. Các câu chuyện đem lại cho quý vị cơ hội để chia sẻ những gì là quan trọng với quý vị, những gì mà quý vị quý trọng và cách quý vị nghĩ về các sự vật. Các câu chuyện có thể giúp các trẻ cảm thấy được kết nối với quý vị và được đầu tư vào việc học ngôn ngữ.
    • Các trẻ thích nghe kể các câu chuyện thời trẻ thơ của quý vị. Những câu chuyện này có thể dạy cho chúng về lịch sử, gia đình và văn hóa.
    • Các câu chuyện về thời của quý vị, về các sự việc quý vị thích thú. Quý vị có thể sử dụng các câu chuyện để nhớ lại và suy nghĩ về thời trẻ thơ của mình.
    • Các câu chuyện không được dài dòng. Các câu chuyện có thể bao gồm những gì đã xảy ra, cách quý vị hoặc con quý vị đã cảm nhận về nó, cách người ta đã giải quyết vấn đề, quý vị hồi còn bé như thế nào.
    • Quý vị có thể sử dụng những câu chuyện để chứng minh các ý tưởng mà quý vị yêu quý, ví dụ: tính kiên trì, óc sáng tạo, lòng trắc ẩn, tính hào phóng, sự chu đáo, lòng dũng cảm, sự chung sức.
  • Hỏi trẻ các câu hỏi. Hỏi trẻ các câu hỏi cho chúng cơ hội phản ảnh và suy nghĩ về những gì chúng biết và cả cơ hội thực hành việc chọn lựa và phát âm các từ. Điều đó cũng khiến cho các trẻ biết rằng quý vị quý trọng các ý tưởng của chúng.
  • Hỏi các trẻ về:
    • những gì chúng thấy,
    • những gì chúng đang làm,
    • những gì chúng đang nghĩ,
    • cách chúng cảm nhận,
    • những gì mà chúng thích,
    • những gì đã xảy ra trước đây,
    • những gì chúng nghĩ sắp xảy ra.
  • Hỏi các trẻ những câu hỏi tiếp nối nhau. Khi chúng nói với quý vị một điều gì đó, quý vị có thể hỏi chi tiết hơn. Hỏi thêm các câu hỏi thử thách chúng để suy nghĩ sâu hơn về những gì chúng biết và tìm các từ để mô tả nó. Trả lời các câu hỏi của quý vị là một cách để các trẻ căng giãn sức lực ngôn ngữ của chúng.
    • “Ái chà, con và Rigo đã chơi trò chơi rồng à.  Mấy con rồng đã làm gì?  Con nói thêm cho mẹ biết về rồng đi.  Con nghĩ xem rồng làm thế nào mà khạc ra lửa như vậy?”
    • Con đã vẽ một tàu vũ trụ hả?  Thế tàu vũ trụ của con có gì bên trong?  Cái gì làm cho tàu vũ trụ bay được?  Tàu vũ trụ bay đi đâu?  Con nói cho mẹ biết thêm về tàu vũ trụ xem nào”.
  • Hỏi các câu hỏi để các trẻ tạo ra câu trả lời của riêng mình (tránh các câu hỏi chỉ trả lời có hay không) Khi chúng ta hỏi các trẻ những câu hỏi không có “câu trả lời đúng”, chúng có thể sáng tạo và suy nghĩ nhiều hơn trong câu trả lời của mình, đừng cố tính toán những gì quý vị muốn chúng nói.
    • Đây là một số ví dụ về câu hỏi có thể tạo ít nhiều cơ hội đàm thoại
    • “Hôm nay con và Liam đã làm gì?” (câu hỏi mở-nhiều cơ hội đàm thoại)
    • “Hôm nay con có chơi đùa với Liam không?” (câu hỏi có/không hoặc đóng-ít cơ hội đàm thoại)
    • “Con cho mẹ biết về bạn Lew của con đi”. (câu nói mở-nhiều cơ hội đàm thoại)
    • “Con có thích Lew không? (câu hỏi có/không hoặc đóng-ít cơ hội đàm thoại)
  • Hỏi các câu hỏi mà quý vị không có sẵn câu trả lời. Hỏi các câu hỏi mà quý vị không có sẵn câu trả lời để truyền đạt cho các trẻ biết rằng quý vị thành thực quan tâm đến suy nghĩ của chúng và do đó suy nghĩ của các trẻ là quan trọng.
    • Con chú ý đến điều gì ở trang này? (câu trả lời chưa được biết-một phương pháp hay để hỗ trợ các trẻ suy nghĩ)
    • Con nghĩ con chó sắp làm gì nào? (câu trả lời chưa được biết-một phương pháp hay để hỗ trợ các trẻ suy nghĩ)
    • Con chó màu gì? (câu trả lời đã được biết; ít hỗ trợ cho các trẻ suy nghĩ)
  • Quý vị có thể mời con mình trả lời câu hỏi mà chúng đã hỏi quý vị. Các trẻ thường đã đoán sẵn được câu trả lời khi đưa ra câu hỏi cho quý vị.  Hỏi các trẻ xem chúng suy nghĩ gì khuyến khích chúng suy nghĩ về các từ và đem lại cho chúng nhiều cơ hội hơn để tham gia đàm thoại với quý vị.
    • “Đó là một câu hỏi thú vị.  Con nghĩ các ngôi sao thức dậy trên bầu trời như thế nào?”
  • Lắng nghe các trẻ. Các trẻ sẽ nói chuyện nhiều hơn khi biết quí vị đang nghe chúng.  Càng nói chuyện nhiều, chúng càng thực hành ngôn ngữ nhiều hơn.
  • Quý vị có thể để cho trẻ biết quý vị đang lắng nghe bằng cách
    • tiếp xúc bằng mắt,
    • để không gian yên tĩnh cho các trẻ nói chuyện hay kết thúc những gì chúng đang nói,
    • tắt tivi,
    • thường xuyên tạo “thời gian nói chuyện” (ví dụ: đang ngồi trên giường, đang đi tản bộ với nhau, đang ôm trẻ vào giờ đi ngủ)
    • lặp lại hay nói lại những gì các trẻ đã nói để cho chúng biết quý vị đã nghe chúng,
    • hỏi các câu hỏi,
    • cảm ơn các trẻ đã chia sẻ ý tưởng hoặc câu chuyện với quý vị.
  • Quý vị có thể sử dụng công nghệ để hỗ trợ quá trình phát triển ngôn ngữ của các trẻ
    • Sử dụng điện thoại của quý vị để thu âm lời nói và các câu chuyện của các trẻ.  Khi nghe lại, quý vị có thể nói chuyện về những gì chúng đã nói.

Đọc

Các trẻ học đọc như thế nào?

  • Khi cùng đọc với các trẻ, quý vị bắt đầu mở toàn bộ các từ mới cho trẻ xem.  Việc đọc khiến chúng học được một hình thức truyền đạt mạnh mẽ và giúp chúng tiếp cận với tất cả các loại thông tin.
  • Đa số các trẻ đều thích chia sẻ một quyển sách với một thành viên gia đình.  Việc đọc ở con quý vị là một trong đa số những điều quan trọng mà quý vị có thể thực hiện để giúp trẻ học đọc và thành công ở trường học.
  • Việc đọc không chỉ xảy ra ở sách.  Các trẻ cũng bị hấp dẫn bởi các dấu hiệu, nhãn hiệu, lời chỉ dẫn, ghi chú, thư từ, email.  Việc học có nhiều người sử dụng để đọc, thậm chí còn giúp các trẻ hăng hái học đọc nhiều hơn.
  • Kinh nghiệm đọc từ khi còn nhỏ của các trẻ bắt đầu bằng việc trẻ học ghi nhận ảnh chụp và hình ảnh. Chúng biết rằng người ta có thể đặt tên và nói chuyện về ảnh chụp và hình ảnh. Chúng cũng biết rằng có thể kể các câu chuyện về những hình ảnh trong sách. Và cuối cùng, các trẻ biết rằng các mẫu tự trên giấy kể câu chuyện về các hình ảnh hay mô tả về chúng. Ví dụ: các trẻ bắt đầu hiểu rằng có mối quan hệ giữa hình ảnh của quả táo với các mẫu tự a-p-p-l-e trên trang sách—các mẫu tự đó tượng trưng cho ý tưởng về quả táo.
  • Khi quen dần với sách, các trẻ biết nhiều điều:
    • Rằng sách thì quan trọng (vì chúng quan trọng với quý vị) và vì chúng cũng chứa nhiều thông tin thú vị.
    • Con sử dụng sách như thế nào—cầm sách, giở sách, nói chuyện về từng trang,
    • Con có thể sử dụng sách cùng với người khác hay chỉ một mình,
    • Câu chuyện ở đâu (Nó nằm ở các hình ảnh hay trong các mẫu tự ở cuối trang sách hoặc trong ký ức của người đang đọc sách?)
    • Sách được sắp xếp như thế nào (Tựa sách và tên tác giả đều ở mặt trước và câu chuyện ở bên trong)

Các gợi ý về những gì mà gia đình có thể làm để hỗ trợ trẻ trong các hoạt động trước khi biết đọc:

  • Xem các ảnh chụp và hình ảnh cùng với các trẻ và hỏi xem chúng thấy gì và nói chuyện về những gì quý vị thấy. Việc này giúp các trẻ phát triển các kỹ năng nhận xét của mình và đem lại cho chúng cơ hội thực hành và gia tăng từ vựng.
  • Hỏi xem các trẻ nghĩ những gì đang xảy ra trong bức hình. Việc này giúp các trẻ có cơ hội thực hành “kể câu chuyện của riêng mình” và có thể giúp chúng nghĩ chính mình là người kể chuyện và là tác giả.
  • Chú ý các từ trong môi trường và chỉ cho các trẻ thấy. Khi chúng ta chỉ ra những nơi mà từ được sử dụng trên thế giới, các trẻ bắt đầu thấy được tầm quan trọng của từ được viết ra và thậm chí còn cảm thấy bị thôi thúc học cách đọc các từ đó nhiều hơn.
    • Khi đang ở trong xe hơi, quý vị có thể nói chuyện với các trẻ về các biển báo giao thông.
    • Trong cửa hàng tạp phẩm, các trẻ có thể giúp quý vị “đọc” nhãn trên các lon và bao bì đựng hàng hóa.  Nói chuyện về các hình ảnh có thể giúp các trẻ trải nghiệm về cảm xúc khi đọc.
  • Đọc những gì mà quý vị đang viết. Khi thấy chữ đang được viết ra và nghe thấy ý nghĩa của nó, các trẻ có thể thấy rõ hơn mối quan hệ giữa chữ viết và việc liên lạc bằng thư tín.
    • “Mẹ đang viết danh sách hàng tạp phẩm.  Đây là, ‘phó mát’, còn đây là, ‘gạo’.  Thế chúng ta nên ghi loại trái cây nào vào danh sách mua hàng?”
    • “Mẹ đang viết thư cho thầy giáo của con rằng tuần tới chúng ta sẽ đi khỏi thành phố”.
  • Đọc lớn thư và các mẫu tự cho trẻ nghe.
    • Đây là thư mà thầy giáo con đã viết.  Thư viết là, “Gia đình thân mến …”
  • Chỉ vào các từ mà quý vị đang đọc.
    • Việc chỉ vào từ giúp các trẻ hiểu được từ nói liên quan đến từ được viết ra như thế nào.
    • “Đây là thư của bà ngoại.  Chỗ này bà ngoại nói là, ‘Mẹ yêu con’.  Còn chỗ này bà ngoại nói, ‘Mẹ sẽ đến thăm con’”.
  • Đọc cho các trẻ nghe các email và cả tin nhắn. Đôi khi các từ trên màn hình không được rõ ràng đối với các trẻ.  Chỉ các từ này giúp chúng thấy cách mà công nghệ cũng có thể mang được từ được viết ra và việc liên lạc thông tin.
    • Nhiều từ trong môi trường của các trẻ là điện tử, và điều này cũng tạo cơ hội cho các hoạt động trước khi có được khả năng đọc.
  • Tìm cơ hội để viết lại những lời nói của các trẻ. Viết lại lời nói của các trẻ là một trong những điều quan trọng nhất mà quý vị có thể làm được để chứng minh cho chúng thấy khả năng của việc viết và đọc. Nếu các lời nói của trẻ có thể được “lưu” và chia sẻ với nhiều người hơn và vào những thời điểm khác nhau, chúng có thể cảm thấy khả năng của việc viết và đọc.
    • Nếu các trẻ cảm thấy buồn khi chào tạm biệt bạn, quý vị có thể gợi ý là chúng có thể muốn viết thư.  Chúng có thể vẽ hình ảnh và nói với quý vị viết điều gì đó.  Ngay khi quý vị đã viết lại những lời nói của trẻ, hãy đọc lại cho con quý vị nghe.
    • Nếu bạn của các trẻ sắp đến ngày sinh nhật, các trẻ có thể làm thiệp chúc mừng—bằng cách vẽ và nhờ quý vị viết chữ vào đó.
    • Nếu các trẻ tạo được điều gì đó và muốn lưu lại, quý vị có thể giúp chúng làm một dấu hiệu (bằng các từ của chúng) để dán lên vật được tạo đó.
  • Dành sẵn cho các trẻ các vật liệu để vẽ (viết chì, viết mực, viết lông, phấn). Khi các trẻ vẽ, quý vị có thể hỏi chúng xem có muốn nói cho quý vị về điều đó hay không. Quý vị có thể viết  lại “câu chuyện” của chúng lên mẩu giấy dán ghi chú và sau đó hỏi xem chúng có muốn quý vị đọc lại cho nghe hay không. Các vật liệu để vẽ đem lại cho các trẻ cơ hội thực hành vẽ các đường nét và hình dạngcác kỹ năng mà cuối cùng chúng cũng sẽ cần cho việc viết. Thậm chí các hình vẽ còn đem lại cho các trẻ cảm giác có thể truyền đạt các ý tưởng của mình bằng các cách khác nhau, và chúng có thể bắt đầu có kinh nghiệm mình là “tác giả”.
  • Đọc sách cho các trẻ nghe. Đọc sách cho các trẻ nghe không những đem lại cho chúng việc thực hành tất cả kỹ năng cần thiết để đọc, mà còn truyền đạt đến chúng tầm quan trọng về cách đọc sách đối với quý vị.
    • Cung cấp nhiều loại sách thiếu nhi trên kệ hay trong một cái giỏ mà các trẻ có thể với tới.
    • Quý vị có thể thường xuyên đến thư viện hay tiệm sách để mua sách cho con mình.
    • Bao gồm việc đọc sách vào sinh hoạt thường xuyên cùng với con quý vị (hãy tìm một thời gian hàng ngày khi quý vị có thể đọc sách cùng với con mình).
    • Tắt tivi để dành thời gian đọc sách.
    • Đọc sách nhiều lần cho con quý vị nghe.  Các trẻ thường thích đọc đi đọc lại một quyển sách nhiều lần.
    • Nói chuyện về sách cùng với con quý vị.
    • Trước khi sang trang, chỉ cho con quý vị thấy những gì mà trẻ nghĩ là sẽ xảy ra tiếp theo.
    • Cũng như việc đọc các từ, quý vị có thể bàn thảo về câu chuyện và hình ảnh cùng với con mình.
    • “Con xem gì ở trang này vậy?”
    • “Tại sao con nghĩ cậu bé đã trèo được lên ngọn cây đó?”
    • “Con sẽ làm gì nếu được cưỡi con ngựa đó?”
    • Trước khi đọc một trong cách quyển sách ưa thích cho con quý vị nghe, hãy hỏi xem trẻ có muốn quý vị kể câu chuyện trước hay không.
    • Đôi lúc, khi đọc sách cho con quý vị nghe, quý vị có thể vừa chỉ từ vừa đọc.
    • Giải thích cho con quý vị về các từ trên trang bìa của quyển sách là gì. “Đây là tựa đề của sách.  Nó cho con biết ý tưởng của những gì mà sách nói đến bên trong”. “Đây là tên tác giả. Tác giả là người đã viết ra quyển sách.  Đây là tên người vẽ hình minh họa. Ông ta là người đã tạo ra các hình ảnh cho sách”.
    • Nói chuyện với con quý vị về các mẫu tự và âm thanh.
    • Chỉ các mẫu tự trong các từ đặc biệt, như tên con quý vị. “Tên con quý vị bắt đầu bằng một chữ “S”, Sergio. Con có thể nghĩ ra bất kỳ từ nào khác có âm “ssss” không? Chúng ta có thể tìm những từ bắt đầu bằng chữ “S” gần đó. Chúng ta có thể lập được một danh sách tất cả các từ mà chúng ta thấy có âm “ssss” trong đó.
    • Chơi đùa với âm thanh và vần điệu. Sử dụng các bài hát, bài thơ hay các lời nói có vần điệu khác, quý vị có thể giúp các trẻ nghe và so sánh âm thanh của các từ.
    • Quý vị có thể chơi trò ghép vần trong xe hơi. “Con gấu có lông màu đen. Con thử nghĩ một từ có âm như con gấu và lông không?”
  • Sử dụng điện thoại của quý vị để ghi âm giọng đọc sách của quý vị để các trẻ có thể lắng nghe khi quý vị đang bận hay khi chúng đang chờ ở phòng mạch bác sĩ.

Viết

Các trẻ học viết như thế nào?

  • Vào 4 tuổi, nhiều trẻ đã biết một số công dụng của việc viết chữ.  Chúng biết các từ có ở nhiều nơi-sách, bảng hiệu, phiếu, thư từ, tạp chí, máy vi tính, cửa hàng.
  • Trẻ đang bắt đầu hiểu rằng người ta có thể sử dụng chữ viết để gửi tin nhắn cho người khác.
  • Khi vẽ điều gì đó, các trẻ cũng có thể muốn viết các mẫu tự trên giấy.  “Mẫu tự” của các trẻ có thể trông chưa giống các mẫu tự lắm, nhưng thường thì sẽ bắt đầu giống chữ viết hơn là hình vẽ.
  • Một trẻ có thể tạo ra các đường nguệch ngoạc trên cả trang giấy rồi nói, “Đây là câu chuyện về con sói đáng sợ”. Sau đó, trẻ có thể vẽ một số vòng tròn ở cuối trang rồi nói, “Còn đây là hình của con sói”.  Viết chung với vẽ là một bước định hướng học để viết chữ rõ ràng.
  • Sẵn sàng tiếp cận nhiều loại công cụ và giấy vẽ và viết khác nhau nhằm khuyến khích các trẻ sử dụng các công cụ này để diễn đạt bản thân và giao tiếp.

Các gợi ý về những gì mà gia đình có thể làm để hỗ trợ trẻ học viết:

  • Có nhiều loại công cụ và giấy viết khác nhau mà chính các trẻ có thể thấy và với lấy chúng.  (Viết chì, viết mực, viết lông, giấy có kích cỡ khác nhau).  Trong khi chơi đùa, các trẻ thường có nhu cầu vẽ hình hay tạo các dấu hiệu. Có vật liệu sẵn sàng sẽ khuyến khích chúng sử dụng các công cụ này trong việc chơi đùa của mình nhiều hơn.
    • Quý vị cũng có thể bao gồm băng keo và dải giấy, để các trẻ có thể tạo các dấu hiệu hay bao thư và có thể viết chữ hay lời ghi chú. Một số trẻ có thể thích có giấy kẻ hàng thưa để viết.
  • Tạo một “bao thư từ” cho con quý vị có thể chứa các từ mà trẻ nhờ quý vị viết ra.  Khi các trẻ có thể xem lại các từ này, chúng bắt đầu quen thuộc với những gì mà chúng có vẻ quen thuộc và bắt đầu “đọc” lên.
  • Quý vị có thể in hay mua một bảng mẫu tự để quý vị và con mình có thể tham khảo khi trẻ muốn biết cách đánh vần một cái gì đó. Dán bảng mẫu tự cho phép con quý vị tham khảo các từ của riêng mình và có thể giúp chúng cảm thấy như mình có thể bắt đầu viết được một mình.
  • Quý vị có thể cung cấp các bộ chữ cho con mình.  Có các chữ ở xung quanh giúp con quý vị trở nên quen thuộc với các hình dạng và cho phép trẻ bắt đầu sắp xếp chúng, ngay cả trước khi trẻ có đủ khả năng viết được chữ.
    • Có các loại chữ khác nhau mà quý vị có thể mua, bao gồm các chữ có nam châm mà các trẻ có thể sử dụng để gắn lên tủ lạnh, hay quý vị có thể chỉ cần viết chữ lên những miếng giấy cứng nhỏ và cung cấp cho các trẻ để sử dụng trong việc tạo chữ.
  • Mời con quý vị viết cùng với mình khi quý vị đang viết thư hay lập danh sách.  Các trẻ thích tỏ ra hữu dụng và tham gia vào công việc người lớn.  Điều này có thể kích thích sự quan tâm của các trẻ về việc học viết nhiều hơn.
    • “Mẹ sắp lập một danh sách mua sắm.  Con có muốn giúp mẹ không?” Nếu biết con mình có thể viết được một số từ nào đó, quý vị có thể mời trẻ viết ra các từ đó trên danh sách của mình. “Mẹ đang viết táo trên danh sách và chữ đó bắt đầu bằng một chữ “T” giống như tên con đó.  Con có muốn viết chữ “T” cho mẹ không?
  • Đề nghị viết các câu chuyện trẻ em hay các từ cho chúng.  Viết các ý tưởng và đọc lại cho các trẻ nghe các từ của chúng là một trải nghiệm mạnh mẽ đối với trẻ về hiệu quả viết để nắm giữ và bày tỏ ý tưởng của quý vị.
    • Nếu có một người bạn hay ai đó mà các trẻ muốn giao tiếp, quý vị có thể đề nghị giúp chúng viết thư.
    • Nếu các trẻ vẽ một hình ảnh, quý vị có thể hỏi xem các trẻ có muốn nói với quý vị về điều đó và nhờ quý vị viết các ý tưởng của chúng hay không.

CẢM NHẬN SỐ

36 THÁNG (3 tuổi) ĐẾN 48 THÁNG (4 tuổi)

Trẻ học về số như thế nào?

Tổng quan về Cảm nhận Số

Trẻ nhỏ khám phá và bắt đầu thực hành các kỹ năng cần thiết để làm toán từ lâu trước khi trẻ bước vào tiểu học. Trong những năm đầu đời, trẻ học đếm, nhận biết các khối và hình, so sánh kích thước và số lượng, và nhận biết sự tương đồng và khác biệt. Trẻ em phát triển kỹ năng thông qua việc tự khám phá, chơi với các chất liệu và thông qua tương tác đơn giản với người lớn. Những tương tác hàng ngày như người lớn đếm ngón tay và ngón chân, đưa ra hai miếng chuối, xếp những chiếc tất xanh và trắng vào các chồng khác nhau giúp trẻ em phát triển kỹ năng toán học. Trẻ em bắt đầu nói về số lượng của đồ vật bằng cách dùng những từ như “nhiều hơn” và “to hơn.”

Khi trẻ lớn hơn, chúng bắt đầu hoc đếm một vài số. Trẻ cũng xây dựng sự hiểu biết về số thông qua các hoạt động như xếp đĩa và cốc lên bàn. Chúng bắt đầu nhận thức được việc người lớn sử dụng kỹ năng đếm trong cuộc sống hàng ngày như thế nào và hoc cách sử dụng các số bằng cách bắt chước người lớn. Suốt những năm đầu đời, hầu hết trẻ em quan tâm đến các số một cách tự nhiên. Các hoạt động vui chơi liên quan đến các số củng cố mối quan tâm tự nhiên của trẻ và khuyến khích chúng học hỏi nhiều hơn về các khái niệm toán học.

Cảm nhận số

Giới thiệu

Các trẻ mẫu giáo biết gì về các con số?

Các trẻ nhỏ bắt đầu thực hành các kỹ năng cần thiết cho số học và toán học rất nhiều trước khi chúng bước vào trường tiểu học. Hầu hết các kỹ năng này được phát triển qua trò chơi tự bắt đầu làm quen với nguyên vật liệu của chúng và qua các tương tác đơn giản với người lớn.

  • Các trẻ nhỏ biết được các kỹ năng đếm qua các tương tác hàng ngày chẳng hạn như để đĩa lên bàn, đếm các ngón tay của mình để nói cho quý vị biết chúng bao nhiêu tuổi, đếm số táo cần để cho mỗi trẻ có thể có một quả.
  • Chúng thường hay học cách nói 1-2-3-4-5 (thỉnh thoảng đặt các con số theo thứ tự khác nhau) trước khi chúng biết rằng mỗi con số tượng trưng cho một vật nào đó. Ví dụ: chúng có thể có ba quả dâu và đếm 1-2-3-4-5, bởi vì chúng không biết mỗi quả dâu chỉ là một số. Vì một trẻ bắt đầu hiểu được khái niệm này, quý vị có thể nhìn thấy việc trẻ xếp các con thú đứng thành hàng thẳng và cho mỗi con một lá để ăn. Cuối cùng là chúng biết được nếu quý vị đang đếm một đồ vật gì đó, thì mỗi đồ vật có một con số.
  • Các trẻ nhỏ cũng đang bắt đầu hiểu về các ý tưởng không ít thì nhiều và sẽ chú ý nếu một người nào đó có nhiều bánh quy hơn chúng, nhưng chúng không biết rõ số lượng. Nếu chúng có một bánh quy và bạn chúng có một bánh quy được cắt thành hai miếng, chúng có thể nghĩ rằng bạn chúng có nhiều bánh quy hơn. Các ý tưởng không ít thì nhiều của chúng giúp chúng biết so sánh nhiều hơn hai đồ vật. Vì có nhiều trải nghiệm, nên chúng có thể sẽ phân loại ba cái que từ ngắn nhất đến dài nhất hoặc ba quả bóng từ nhỏ nhất đến lớn nhất.
  • Vào khoảng bốn tuổi, các trẻ có thể có khả năng đếm đến 10, nhưng có thể thiếu một vài con số (ví dụ: 1-2-3-5-7-8-10).
  • Chúng có thể nhận biết một con số được viết ra. Ví dụ: chúng có thể chỉ vào một biển báo đường và nói, “Đó lá số 4–đúng như mình 4 tuổi.”
  • Chúng cũng có thể nhìn một số nhỏ đồ vật và biết có bao nhiêu mà không cần đếm. “Bạn ấy có ba chiếc xe, còn mình chỉ có một thôi!”
  • Vào lúc bốn tuổi, các trẻ có thể thường hay đếm đến năm đồ vật, hãy chỉ vào mỗi đồ vật khi trẻ nói con số.
  • Các trẻ bốn tuổi có thể thường nói với quý vị cái nào nhiều hơn chỉ bằng cách nhìn. Nếu bạn của trẻ có sáu hình khối, còn trẻ có hai, trẻ có thể cho quý vị biết rằng bạn của trẻ có nhiều hơn số hình khối mà trẻ có.
  • Chúng có thể dự đoán rằng nếu có một nhóm búp bê trên giường và một búp bê được lấy đi, sẽ còn lại ít búp bê hơn trên giường. Tương tự, nếu các trẻ đặt hai nhóm đồ vật với nhau (kết hợp bánh quy của chúng và bánh quy của bạn chúng), chúng biết rằng hiện chúng có nhiều hơn.
  • Vào lúc bốn tuổi, các trẻ có thể làm phép cộng và trừ rất đơn giản. Nếu các trẻ có bốn miếng táo và ăn một miếng, chúng có thể nói với quý vị rằng bây giờ chúng có ba–không cần đếm. Nếu các trẻ có một chiếc xe lửa dài bằng bốn chiếc xe hơii và thêm một chiếc nữa, các trẻ có thể nói với quý vị rằng bây giờ dài bằng năm chiếc xe hơi.

Các gợi ý cho gia đình giúp trẻ hiểu biết con số:

Nhiều việc mà gia đình cùng làm với các trẻ một cách tự nhiên sẽ giúp chúng phát triển các kỹ năng toán học và con số của chúng. Có nhiều cơ hội trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta mà người lớn sẽ đếm các đồ vật và các trẻ sẽ thực hành con số trong khi chơi đùa. Đây là một số gợi ý về những việc mà gia đình có thể thực hiện:

  • Đếm lớn, để các con quý vị có thể nghe trình tự con số và chú ý cách bao lâu quý vị dùng việc đếm trong ngày của mình.Khi bọn trẻ học được ở bạn rằng những con số hữu ích như thế nào trong cuộc sống hàng ngày, trẻ sẽ quan tâm nhiều hơn đến số.
    • Đếm số hôn mà quý vị hôn con mình, đếm số cây bên ngoài nhà quý vị, hoặc đếm số lần chó sủa.
  •  Chỉ vào các đồ vật khi quý vị đếm để cho các trẻ có thể nhìn thấy cách quý vị đếm mỗi số tượng trưng cho một đồ vật.
  • Bảo con quý vị đoán hoặc dự đoán có bao nhiêu đồ vật và sau đó chúng ta cùng nhau đếm. Bao nhiêu xe buýt sẽ đi qua trước khi xe buýt của chúng ta đến đây?
  • Các trẻ sẽ phạm nhiều lỗi khi chúng sẽ biết được các con số. Không thể nói rằng chúng “sai,” quý vị có thể gợi ý nhẹ nhàng rằng chúng ta cùng nhau đếm lại. Hoặc quý vị có thể nói, “Con đã đếm 5 con vịt, còn mẹ chỉ nhìn thấy 4 thôi.”Trẻ thích thú một cách tự nhiên đối với việc bắt chước bạn học những thứ như số. Qua thời gian, chúng sẽ nói theo cách của bạn và “tự tu dưỡng” để trở nên giống bạn hơn.
  • Mua sắm, nấu nướng và ăn uống tạo nhiều cơ hội đếm:
    • “Chúng ta sẽ mua bốn quả bắp hay năm? Con có thể đếm những quả bắp cho mẹ khi con bỏ vào giỏ không?”
    • “Nếu chúng ta có hai quả chuối và con ăn một quả trong xe, vậy sẽ còn lại là bao nhiêu?”
    • “Mẹ nghĩ mẹ sẽ lấy túi bánh bắp lớn hơn, vì chúng ta mời tất cả anh em họ của mình đến dùng cơm tối. Con có thể lấy túi bánh bắp lớn hơn cho mẹ không?”
    • “Chúng ta có ba túi tạp phẩm. Con có nghĩ chúng ta sẽ để vừa tất cả các túi trong xe của mình không?”
    • “Con muốn xách bao nhiêu túi, còn mẹ sẽ xách bao nhiêu?”
    • “Con có thể để các quả chuối vào đĩa này, còn các quả mận vào chén này không?”
    • “Chúng ta cần ba miếng bánh mì. Con có thể lấy ra khỏi túi được không?”
  • Các cuộc đàm thoại về con số sẽ trở nên vui nhộn. Nếu con quý vị có vẻ căng thẳng hoặc không muốn chơi các trò chơi này, quý vị có thể chờ và thử lại sau đó hoặc thử một trò chơi khác.

SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT

36 THÁNG (3 tuổi) ĐẾN 48 THÁNG (4 tuổi)

Trẻ trở nên khéo léo hơn khi vận động thân thể như thế nào?

Giới Thiệu Về Quá Trình Phát Triển Thể Chất

  • Quá trình phát triển thể chất và hoạt động thể chất đóng một vai trò quan trọng về sức khỏe trong suốt đời sống của một trẻ. Nói riêng, hoạt động thể chất để bảo vệ trẻ không mắc bệnh tim mạch, tiểu đường, và béo phì. Việc đó cũng góp phần vào sức khỏe tâm thần, sự hạnh phúc và tình trạng khỏe mạnh về thể chất.
  • Các kỹ năng vận động thể chất là cơ sở cho các kiểu học tập khác và tạo cơ hội cho các trẻ giao tiếp với những người khác, để khám phá, học tập, và chơi đùa.
  • Hoạt động thể chất chuẩn bị cho các trẻ các hoạt động trong cuộc sống sau này kể cả các hoạt động thể dục, thể thao có tổ chức, và giải trí.
  • Các trẻ sơ sinh, trẻ mới biết đi và trẻ mẫu giáo sẵn sàng phát triển và rất năng động để học tập các kỹ năng vận động mới. Thời gian theo học mẫu giáo là thời cơ cho các trẻ nhỏ học tập các kỹ năng vận động cơ bản. Nếu không học tập các kỹ năng đó trong thời gian theo học mẫu giáo, các trẻ có thể gặp khó khăn học tập các kỹ năng đó sau này, và khả năng tham gia của chúng vào các hoạt động thể chất có thể bị ảnh hưởng dài hạn.
  • Trong suốt những năm học mẫu giáo, các trẻ phát triển các kỹ năng vận động quan trọng. Các kỹ năng đó được dựa vào quá trình phát triển thể chất đã xảy ra cho các trẻ ở thời kỳ sơ sinh và mới biết đi.
  • Hiện chúng ta biết được các trẻ học tập ở mức độ nào thông qua hoạt động thể chất ngoài trời trong thế giới tự nhiên. Điều quan trọng là người lớn phải giúp các trẻ có các cơ hội vui chơi loại này, vì nhiều trẻ đã dành phần lớn thời gian của chúng ngồi trước máy truyền hình hoặc màn hình máy vi tính thay vì tham gia hoạt động thể chất.
  • Càng trải nghiệm hoạt động thể chất đang có, các trẻ càng tự tin phát triển và càng quyết tâm thử nghiệm các sự việc mới và phát triển các kỹ năng mới. Các trẻ dành nhiều thời gian xem máy truyền hình hoặc máy vi tính có thể ít quyết tâm thử nghiệm các thử thách thể chất mới và có thể bỏ lỡ cơ hội phát triển các kỹ năng thể chất quan trọng.
  • Việc nghiên cứu nêu bật các lợi ích trải nghiệm của bản chất dành cho các trẻ và cho thấy các trẻ thích dành thời gian trong môi trường tự nhiên hơn. Hơn nữa, chúng ta cũng biết rằng sự tiếp nhận không gian xanh, ngoài trời sẽ cải thiện các kỹ năng suy tư của các trẻ và tình trạng khỏe mạnh và các mối quan hệ của chúng.

Sự phát triển Thể chất

Một số điều quý vị có thể nhìn thấy ở các trẻ bốn tuổi:

  • Cho thấy cảm giác thăng bằng phát triển.
  • Giữ thăng bằng trong khi đang đứng bằng một chân cũng như giữ thăng bằng khi chúng dừng lại sau khi chạy.
  • Giữ thăng bằng trong khi đang đi trên cạnh hộp cát hoặc đang gập người xuống để đụng bàn chân của mình.
  • Đi lên cầu thang, mỗi chân một bậc mà không cần nắm chặt vào rào chắn.
  • Đi dọc theo vạch nhỏ trên vỉa hè, vẫy tay để giữ thăng bằng.
  • Chạy bằng lòng bàn chân.
  • Chạy, nhưng có thể gặp trở ngại dừng lại.
  • Chạy nhanh (chạy dẫn đầu cùng một chân).
  • Nhảy lên để chạm vào một đồ vật gì đó ngoài tầm với.
  • Chạy khom người.
  • Nhảy như ếch từ tư thế ngồi xổm.
  • Nhảy xuống từ lề đường hoặc khung leo trèo thấp bằng hai chân.
  • Nhảy lò cò về phía trước bằng một chân.

Các gợi ý cho gia đình để hỗ trợ quá trình phát triển thể chất của trẻ mẫu giáo:

CÁC PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP

36 THÁNG (3 tuổi) ĐẾN 48 THÁNG (4 tuổi)

Những kỹ năng nào giúp trẻ học tập?

Giới thiệu các Phương pháp Học tập

Trẻ nhỏ phát triển nhiều kỹ năng giúp chúng học tập và giải quyết vấn đề. Những kỹ năng này bao gồm khả năng chú ý, ngay cả khi có những điều gây sao nhãng, để quan sát và đặt câu hỏi, để thu thập thông tin và thăm dò các cách khác nhau để giải quyết vấn đề. Những kỹ năng này được gọi là các phương pháp học tập.

Trẻ nhỏ học sử dụng các khái niệm toán học như số, hình khối và kích thước khi giải quyết các vấn đề. –Chúng sử dụng tất cả các giác quan của mình để thu thập thông tin, nhận thấy sự khác biệt và tương đồng, và thường có sự so sánh. Chúng cẩn thận quan sát con người và đồ vật và hình thành những giả thiết và đưa ra những dự báo dựa trên sự quan sát của mình. Trẻ cũng làm những thí nghiệm đơn giản và đánh giá kết quả các thí nghiệm của mình.

Trẻ nhỏ vốn tò mò. Người lớn có thể khuyến khích sự tò mò và sáng kiến của trẻ bằng cách hỏi trẻ những câu hỏi mở, đáp lại những câu hỏi của trẻ, và cung cấp những loại vật liệu khác nhau để trẻ khám phá. Sự hỗ trợ như vậy giúp củng cố sự tự tin đang ngày càng tăng lên của trẻ trong khi học tập và ham muốn được cố gắng giải quyết các vấn đề khó.

Các phương pháp Học tập

Giới thiệu

Các kỹ năng nào mà trẻ mẫu giáo sử dụng để giải quyết vấn đề?

  • Một kỹ năng mà trẻ mẫu giáo sử dụng để giải quyết các vấn đề hàng ngày là lý luận toán học.
  • Các khái niệm toán học như số, việc đếm số, hình dạng và kích thước đều giúp trẻ giải quyết các vấn đề. Các trẻ sử dụng những kỹ năng này để chọn cái đĩa có kích thước nào mà chúng sẽ cần để đựng món bánh bắp nhân thịt, nghĩ ra bao nhiêu chiếc xe hơi chúng cần để mỗi bạn của chúng có một chiếc xe hơi và để tìm kiếm chiếc mền lớn cỡ nào để đủ đắp cho hai em bé.
  • Một trẻ mẫu giáo nhỏ có thể bắt đầu bằng cách thử một ý tưởng không hiệu quả. Một trẻ mẫu giáo lớn hơn có thể thử nhiều phương cách, cuối cùng tìm ra một phương cách hiệu quả. Cho dù các ý tưởng của chúng có hiệu quả lúc đầu, nhưng vẫn không hề gì nếu khi chúng thực hành các ý tưởng này, thử nghiệm và thay đổi tiến trình hành động khi cần thiết. Các phương cách này thật hữu ích trong việc giải quyết vấn đề hàng ngày, cũng như trong việc phát triển các kỹ năng toán học khác.
  • Các trẻ cũng sử dụng các kỹ năng quan sát và nghiên cứu để giải quyết các vấn đề.
  • Các trẻ sử dụng tất cả các giác quan để thu thập thông tin và xây dựng ý nghĩa và kiến thức.
  • Chúng là những người quan sát hiếu kỳ một cách tự nhiên và lưu ý những sự vật nhỏ mà nhiều người lớn bỏ qua, như lũ kiến bò ra từ khe nứt trên vỉa hè.
  • Các trẻ cũng có thể sử dụng các dụng cụ được cung cấp cho chúng để đo lường hoặc quan sát, với sự hướng dẫn của người lớn. Ví dụ: khi quan sát một chiếc lá cây, chúng có thể sử dụng một chiếc kính lúp để thấy “các gân lá” rõ ràng hơn hoặc sử dụng một cây thước (hay khối vuông ghi số) để đo chiều dài. Qua quan sát, các trẻ bắt đầu nhận biết và mô tả những nét giống và khác nhau giữa đồ vật này với đồ vật kia.
  • Các trẻ sử dụng kỹ năng phát triển của mình vào việc quan sát kỹ lưỡng để so sánh và đối chiếu các đồ vật và sự kiện rồi phân loại chúng dựa vào các thuộc tính khác nhau. Ví dụ: một trẻ có thể tách riêng những chiếc lá “nhọn” với tất cả chiếc lá tròn hoặc để riêng lá lớn với lá nhỏ.
  • Các trẻ cũng có thể nghiên cứu các đồ vật và sự kiện bằng cách thử mọi thứ xem những gì xảy ra. Ví dụ: chúng có thể nghiên cứu xem những gì xảy ra khi cho chiếc xe hơi đồ chơi chạy trên những đoạn đường dốc có bề mặt gồ ghề hay phẳng phiu, kiểm tra những gì xảy ra khi để cây cối ở nơi có hoặc không có ánh sáng, hay trắc nghiệm các ý tưởng của mình về cách sử dụng ống dẫn để làm mực nước dâng cao hay hạ thấp trong hồ nước đồ chơi.
  • Chúng học cách tiên đoán các thay đổi ở các vật liệu hoặc đồ vật dựa vào kiến thức và sự hiểu biết của mình, và thử nghiệm các tiên đoán của mình bằng cách quan sát hay thí nghiệm đơn giản.
  • Các trẻ sử dụng những kỹ năng quan sát và tìm hiểu của mình để đặt câu hỏi, quan sát và mô tả các quan sát, sử dụng các công cụ khoa học, so sánh và đối chiếu, dự đoán, và rút ra kết luận.

Các trẻ dùng suy nghĩ toán học để giải quyết các vấn đề mỗi ngày. 

  • Các trẻ sắp xếp lại các hình khối để dựng một cái tháp cao, ví dụ: bằng cách đặt các khối chữ nhật ở dưới đáy và các khối tam giác trên đỉnh tháp.
  • Một trẻ có thể đi lấy nhiều con ngựa, để vào mỗi chuồng một con ngựa.
  • Một trẻ có thể cho bạn mình hai bông hoa và giữ lại hai bông hoa cho mình, để cả hai đều có cùng một số lượng bông hoa như nhau.
  • Một trẻ có thể so sánh chiều dài con rắn bằng bột nặn của mình với bạn mình để xem con rắn nào dài nhất.
  • Một trẻ có thể tạo ra các nhóm đồ vật tùy theo chúng có thể di chuyển hay không.
  • Một trẻ có thể đổ cát từ xô lớn qua thùng nhỏ và nhận ra cát sẽ không vừa và sau đó có thể đi kiếm một xô khác lớn hơn.

Các trẻ tỏ ra tò mò và hỏi những câu hỏi đơn giản về các đồ vật và sự kiện trong môi trường của mình.

  • Một trẻ có thể dựng một tòa tháp càng lúc càng cao để xem nó cao cỡ nào trước khi bị đổ.
  • Một trẻ có thể nhìn con ốc sên và hỏi tại sao nó lại ẩn mình trong vỏ.
  • Khi chiếc xe hơi bị khựng lại trên đường dốc, trẻ có thể lật ngửa chiếc xe lên và nhận ra một bánh xe bị bể.

Các trẻ quan sát những đồ vật và sự kiện trong môi trường và mô tả chúng.

  • Một trẻ có thể quan sát bên trong và bên ngoài một quả bí đỏ và mô tả hình dạng, mùi vị và tính chất của nó, bằng thị giác, khứu giác và xúc giác của mình.
  • Một trẻ có thể quan sát một quả bóng đang lăn xuống đường trượt và thông báo, “Coi nè, nó lăn lẹ quá.  Để con thử lần nữa nè”.
  • Một trẻ có thể nếm một miếng cam và một miếng chanh và bảo là cam ngọt còn chanh thì chua.
  • Một trẻ bị suy giảm thị lực có thể sờ vào vỏ cây và thông báo, “Khi sờ vỏ cây, con thấy nó nhám nhám”.
  • Một trẻ, sau khi thả rơi các quả bóng khác nhau xuống sàn, có thể lắng nghe và so sánh các âm thanh khác nhau do các quả bóng tạo ra và cho biết quả bóng nào kêu lớn và quả bóng nào kêu nhỏ.
  • Một trẻ, khi đi dạo quanh các nhà hàng xóm, có thể ngồi xuống để ngửi một số bông hoa đang nở và kêu lên “Hoa thơm quá!”

Các trẻ bắt đầu xác định và sử dụng một số công cụ quan sát và đo lường với sự hỗ trợ của người lớn.

    • Một trẻ, khi khám phá lá cây, có thể sử dụng kính lúp, với sự trợ giúp của cha/mẹ, để quan sát thật gần một chiếc lá cây.
    • Một trẻ, khi đào đất trong vườn, có thể sử dụng một cái xẻng để chuyển đất trong sân.
    • Một trẻ có thể cầm một cái thước dây kéo về phía chiếc bàn và nói, “Con đang đo cái bàn. Nó dài 6 tấc.”
    • Một trẻ, sử dụng một cái chén lường, có thể giúp một thành viên gia đình lường hai chén bột mì trong khi đang làm bếp.
    • Một trẻ, khi quan sát con kiến bằng kính lúp, có thể nói, “Xem cái hột trái cây lớn quá nè.  Nó còn lớn hơn con kiến nữa”.

Các trẻ so sánh những đồ vật và sự kiện và bắt đầu mô tả những điểm giống và khác nhau.

  • Một trẻ có thể quan sát các hòn đá và phân loại chúng theo kích thước, bằng cách chỉ cho thấy hòn nào lớn, hòn nào nhỏ.
  • Một trẻ có thể quan sát bên trong và bên ngoài trái dưa hấu và mô tả sự khác biệt:  “Bên ngoài thì màu xanh và cứng, còn bên trong màu đỏ và mềm”.
  • Một trẻ có thể xem hình ảnh trong một quyển sách hình và mô tả những gì đã xem:  “Ếch màu xanh, còn cóc màu nâu”.
  • Một trẻ có thể chỉ cho thấy chiếc xe tải chạy rất chậm còn chiếc xe hơi màu vàng chạy rất nhanh như thế nào.
  • Một bé chậm nói có thể nhúng tay vào các ly nước và chỉ cho biết ly nước nào lạnh hơn.

Các trẻ có thể đưa ra các dự đoán và kiểm tra chúng, với sự hỗ trợ của người lớn, bằng các trải nghiệm thực tế.

  • Một trẻ có thể khám phá một quả táo và tiên đoán:   “Có lẽ nó có sáu hột bên trong”. Sau khi cha/mẹ cắt quả táo, trẻ có thể đếm các hột táo.
  • Một trẻ có thể nhìn qua cửa sổ vào một ngày có gió và dự báo, “Lá sẽ rụng nhiều hơn”.
  • Một trẻ có thể đoán chừng đoạn đường đổ dốc của chiếc xe đồ chơi bao xa, bằng cách ra dấu khoảng cách đó qua cử chỉ. Sau đó trẻ có thể đẩy chiếc xe đổ dốc để trắc nghệm dự báo

Các gợi ý cho gia đình giúp trẻ thực hành suy tư toán học, có óc quan sát, và tham gia tìm hiểu:

  • Cung cấp các nguyên vật liệu có tính chất rộng mở cho trẻ chơi đùa, bao gồm các hình khối, xe hơi, vỏ sò, đá, thú đồ chơi, các hộp giấy cứng lớn và nhỏ.Những tài liệu gợi mở khuyến khích trẻ vận dụng sự sáng tạo, trí tưởng tượng và kỹ năng giải quyết vấn đề.
  • Cho trẻ tham gia các công việc nhà như nấu ăn, dọn bàn ăn và sắp xếp quần áo giặt ủi. Bảo trẻ giải quyết vấn đề, ví dụ:
    • “Chúng ta cần đĩa, nĩa và khăn ăn cho bao nhiêu người?”
    •  “Con có thể giúp mẹ để tất cả quần áo màu sáng vào trong giỏ này, còn quần áo màu tối vào giỏ này được không nào?”
    •  “Chúng ta có hai quả táo, hai quả chuối và hai quả cam để làm món rau trộn trái cây.  Vậy chúng ta có tất cả bao nhiêu quả nè?”
  • Gợi ý các công việc đo lường đơn giản cho con quý vị. Ví dụ: “Nếu chúng ta xếp hàng các chiếc xe hơi với nhau, con xem mình phải có bao nhiêu chiếc xe hơi để xếp cho hết cạnh bàn này?”
  • Khi đi mua sắm hàng tạp phẩm, quý vị hãy nhờ con giúp.
    • “Con sẽ lấy 3 quả chuối không?”
    • “Con xem bao nhiêu củ khoai tây thì đựng vừa cái túi này?  Chúng ta có đếm không?”
    • “Gia đình chúng ta có 5 người, con lấy cho mỗi người một quả táo được không nào?”
    • “Chúng ta cần 2 pound lê. Con nhìn cân xem khi nào kim chỉ đúng số 2 nhé”.
  • Khi quý vị đang ở bên ngoài hoặc ở công viên, hãy dừng lại để nhìn kỹ những gì ở xung quanh mình. Quan sát xem con quý vị quan tâm đến những gì và đặt các câu hỏi để khuyến khích việc quan sát và lý luận. Khi chúng ta hỗ trợ trẻ khám phá điều mà chúng thích thú, chúng ta có thể giúp làm sâu sắc hơn cuộc khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh của trẻ.
    • “Ồ, con kiếm được một chiếc lá rồi đấy, còn một chiếc lá giống như vậy ở đâu nhỉ?  Có chiếc lá nào khác chiếc lá này không con?”
    • “Có thấy đám trùn không con?  Hôm qua mình đâu có thấy chúng. Con thử nghĩ tại sao hôm nay chúng ở đâu ra nào?”